NộI Dung
Việc siêu âm vú thường do bác sĩ phụ khoa hoặc bác sĩ chuyên khoa vú yêu cầu sau khi sờ thấy bất kỳ khối u nào khi sờ nắn vú hoặc nếu kết quả chụp quang tuyến vú không kết luận được, đặc biệt ở phụ nữ có vú lớn và trong gia đình có người mắc bệnh ung thư vú.
Siêu âm không giống như chụp nhũ ảnh, cũng không thay thế cho kỳ thi này, chỉ là một kỳ thi có khả năng bổ sung cho việc đánh giá vú. Mặc dù xét nghiệm này cũng có thể xác định các nốt có thể chỉ ra ung thư vú, nhưng chụp nhũ ảnh là xét nghiệm phù hợp nhất để thực hiện trên phụ nữ nghi ngờ mắc ung thư vú.
Xem các xét nghiệm khác có thể được sử dụng để đánh giá sự hiện diện của ung thư vú.
Nó để làm gì
Siêu âm vú được chỉ định đặc biệt để khảo sát sự hiện diện của các khối u hoặc u nang vú ở những phụ nữ có vú dày và có nguy cơ cao bị ung thư vú, chẳng hạn như những người có mẹ hoặc ông bà mắc bệnh này. Các tình huống khác có thể yêu cầu siêu âm vú, trong trường hợp:
- Đau vú;
- Các quá trình chấn thương hoặc viêm của vú;
- Sờ nốt và theo dõi nốt lành tính;
- Để phân biệt nốt rắn với nốt dạng nang;
- Để phân biệt các nốt lành tính và ác tính;
- Để phát hiện huyết thanh hoặc tụ máu;
- Để giúp quan sát vú hoặc khối u trong khi sinh thiết;
- Để kiểm tra tình trạng túi ngực;
- Nếu hóa trị liệu có kết quả như mong đợi của bác sĩ chuyên khoa ung thư.
Tuy nhiên, xét nghiệm này không phải là lựa chọn tốt nhất để khảo sát những thay đổi như vi nang ở vú, bất kỳ tổn thương nào nhỏ hơn 5 mm và cả ở phụ nữ lớn tuổi, những người có bộ ngực nhão.
Bài kiểm tra được thực hiện như thế nào
Người phụ nữ nên nằm trên cáng, không mặc áo và không mặc áo ngực để bác sĩ thoa gel lên bầu ngực và sau đó thiết bị siêu âm vú được đặt tiếp xúc với da. Bác sĩ sẽ trượt thiết bị này trên bầu ngực và xem trên màn hình máy tính và có những thay đổi có thể cho thấy những thay đổi như ung thư vú.
Siêu âm không gây khó chịu và cũng không gây đau như trong chụp nhũ ảnh, nhưng đây là một phương pháp khám có những hạn chế, không phải là lựa chọn tốt nhất để chẩn đoán sớm ung thư vú, vì không tốt nếu kiểm tra những thay đổi có đường kính nhỏ hơn 5 mm. .
Kết quả khả thi
Sau khi kiểm tra, bác sĩ sẽ viết báo cáo về những gì anh ta đã thấy trong quá trình kiểm tra, theo phân loại Bi-RADS:
- Loại 0: Đánh giá không đầy đủ, yêu cầu kiểm tra hình ảnh khác để phát hiện những thay đổi có thể xảy ra.
- Loại 1: Kết quả âm tính, không thấy thay đổi, chỉ cần tái khám định kỳ theo tuổi của sản phụ.
- Loại 2: Những thay đổi lành tính đã được tìm thấy, chẳng hạn như u nang đơn giản, hạch bạch huyết trong cơ, cấy ghép hoặc thay đổi sau phẫu thuật. Thông thường loại thay đổi này thể hiện các nốt lành tính rắn, ổn định trong 2 năm.
- Loại 3: Những thay đổi được phát hiện có thể là lành tính, cần phải kiểm tra lại sau 6 tháng, và sau đó là 12, 24 và 36 tháng sau lần kiểm tra thay đổi đầu tiên. Những thay đổi có thể được tìm thấy ở đây có thể là các nốt gợi ý rằng đó là một khối u xơ, hoặc các u nang phức tạp và phân thành nhóm. Nguy cơ ác tính lên đến 2%.
- Hạng 4: Đã tìm thấy những phát hiện đáng ngờ và nên sinh thiết. Các thay đổi có thể là các nốt rắn mà không có các đặc điểm cho thấy lành tính. Loại này cũng có thể được chia thành: 4A - mức độ nghi ngờ thấp; 4B - nghi ngờ trung gian, và 4C - nghi ngờ trung bình. Nguy cơ ác tính từ 3% đến 94%, cần thiết phải làm lại xét nghiệm để xác định chẩn đoán.
- Loại 5: Các thay đổi nghiêm trọng được tìm thấy, với nhiều nghi ngờ là ác tính. Sinh thiết là bắt buộc, trong trường hợp này, khối u có 95% khả năng là ác tính.
- Loại 6: Ung thư vú đã được xác nhận, đang chờ điều trị có thể là hóa trị hoặc phẫu thuật.
Bất kể kết quả như thế nào, điều rất quan trọng là khám luôn được đánh giá bởi bác sĩ yêu cầu, vì chẩn đoán có thể khác nhau tùy theo tiền sử sức khỏe của mỗi phụ nữ.
Tạo bởi: Nhóm biên tập Tua Saúde