NộI Dung
U hạt sinh mủ là một rối loạn da tương đối phổ biến, gây ra sự xuất hiện của một khối màu đỏ tươi có kích thước từ 2 mm đến 2 cm, hiếm khi đạt đến 5 cm.
Mặc dù, trong một số trường hợp, u hạt sinh mủ cũng có thể có màu sẫm hơn với tông màu nâu hoặc xanh đen nhưng sự thay đổi da này luôn lành tính, chỉ cần điều trị khi nó gây khó chịu.
Những chấn thương này thường gặp nhất ở đầu, mũi, cổ, ngực, bàn tay và các ngón tay. Mặt khác, trong thai kỳ, u hạt thường xuất hiện trên màng nhầy, chẳng hạn như bên trong miệng hoặc mí mắt.
Nguyên nhân là gì
Nguyên nhân thực sự của u hạt sinh mủ vẫn chưa được biết đến, tuy nhiên, có những yếu tố nguy cơ dường như liên quan đến khả năng mắc phải vấn đề cao hơn, chẳng hạn như:
- Tổn thương da nhỏ, do kim hoặc côn trùng cắn;
- Gần đây bị nhiễm vi khuẩn Staphylococcus aureus;
- Thay đổi nội tiết tố, đặc biệt là khi mang thai;
Ngoài ra, u hạt sinh mủ phổ biến hơn ở trẻ em hoặc thanh niên, mặc dù nó có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là ở phụ nữ mang thai.
Cách chẩn đoán được thực hiện
Trong hầu hết các trường hợp, bác sĩ da liễu chẩn đoán chỉ bằng cách quan sát tổn thương. Tuy nhiên, bác sĩ có thể yêu cầu sinh thiết một mảnh u hạt để xác nhận rằng nó không phải là một vấn đề ác tính khác có thể gây ra các triệu chứng tương tự.
Những lựa chọn điều trị
U hạt sinh mủ chỉ cần được điều trị khi nó gây khó chịu và trong những trường hợp này, các hình thức điều trị được sử dụng nhiều nhất là:
- Nạo và đốt: tổn thương được nạo bằng một dụng cụ gọi là nạo và đốt cháy mạch máu nuôi nó;
- Phẫu thuật laser: cắt bỏ tổn thương và đốt gốc nên không chảy máu;
- Phương pháp áp lạnh: lạnh được áp dụng cho tổn thương để tiêu diệt các mô và làm cho nó tự rụng;
- Thuốc mỡ Imiquimod: nó được sử dụng đặc biệt ở trẻ em để loại bỏ các vết thương nhẹ.
Sau khi điều trị, u hạt sinh mủ có thể tái phát trở lại, do mạch máu nuôi nó vẫn còn ở các lớp sâu hơn của da. Nếu điều này xảy ra, cần phải phẫu thuật nhỏ để cắt bỏ một phần da nơi tổn thương đang phát triển để lấy toàn bộ mạch máu.
Trong thai kỳ, u hạt hiếm khi cần được điều trị, vì nó có xu hướng tự biến mất sau khi kết thúc thai kỳ. Bằng cách đó, bác sĩ có thể chọn đợi cho đến cuối thai kỳ trước khi quyết định thực hiện bất kỳ phương pháp điều trị nào.
Các biến chứng có thể xảy ra
Khi điều trị không được thực hiện, biến chứng chính có thể phát sinh từ u hạt sinh mủ là xuất hiện chảy máu thường xuyên, đặc biệt là khi chấn thương bị kéo hoặc bị đòn.
Vì vậy, nếu tình trạng chảy máu nhiều lần, bác sĩ có thể đề nghị cắt bỏ tổn thương vĩnh viễn, dù chỉ là rất nhỏ và không đáng lo ngại.
Tạo bởi: Nhóm biên tập Tua Saúde
Thư mục>
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TÂY PARANÁ. U hạt sinh mủ. 2018. Có tại:. Truy cập vào ngày 30 tháng 12 năm 2019
- MORAES, Sérgio H. và cộng sự. U hạt sinh mủ: một báo cáo ca lâm sàng. Tạp chí Gestão & Saúde. Vol.9, n.2. Ngày 19 tháng 12 năm 2013
- TRƯỜNG CAO ĐNG VĂN HỌC MỸ OSTEOPATHIC. U hạt sinh mủ. Có sẵn trong:. Truy cập vào ngày 30 tháng 12 năm 2019