NộI Dung
Sự xuất hiện của dịch tiết giống như sữa trắng và có thể có mùi khó chịu, trong một số trường hợp, tương ứng với triệu chứng chính của viêm cổ tử cung, đó là viêm âm đạo và cổ tử cung có thể do nấm, vi khuẩn và động vật nguyên sinh, chẳng hạn như Nấm Candida sp., Gardnerella vaginalis và Trichomonas sp.
Để biết đó có phải là viêm cổ tử cung hay không, bác sĩ phụ khoa phải đánh giá các triệu chứng của người phụ nữ, ngoài việc thực hiện các xét nghiệm cho phép xác định các dấu hiệu viêm và tác nhân truyền nhiễm gây ra viêm cổ tử cung, chẳng hạn như xét nghiệm Schiller và soi cổ tử cung. Tìm hiểu thêm về viêm cổ tử cung.
Các triệu chứng viêm ruột kết
Triệu chứng chính của viêm cổ tử cung là tiết dịch âm đạo màu trắng hoặc xám, tương tự như sữa, đôi khi có thể có màu trắng đục, mặc dù điều này không phổ biến lắm. Ngoài ra, một số phụ nữ cho biết mùi hôi thối ở khu vực thân mật, tương tự như mùi của cá, có xu hướng trở nên rõ ràng hơn sau khi tiếp xúc thân mật.
Ngoài việc tiết dịch, bác sĩ có thể xác định các dấu hiệu của niêm mạc cổ tử cung hoặc âm đạo khi khám, phân biệt các loại viêm cổ tử cung ở:
- Viêm cổ tử cung lan tỏa, được đặc trưng bởi sự hiện diện của các chấm đỏ nhỏ trên niêm mạc âm đạo và cổ tử cung;
- Viêm cổ tử cung khu trú, trong đó có thể quan sát thấy các nốt tròn màu đỏ trên niêm mạc âm đạo;
- Viêm cổ tử cung cấp tính, được đặc trưng bởi sự sưng tấy của niêm mạc âm đạo ngoài sự hiện diện của các chấm đỏ;
- Viêm cổ tử cung mãn tính, nơi quan sát thấy các đốm trắng và đỏ trong âm đạo.
Do đó, nếu người phụ nữ tiết dịch màu trắng và bác sĩ xác định những thay đổi cho thấy dấu hiệu viêm nhiễm trong quá trình đánh giá âm đạo và cổ tử cung, điều quan trọng là phải làm các xét nghiệm để xác định nguyên nhân gây viêm cổ tử cung và bắt đầu điều trị.
Những nguyên nhân chính
Viêm đại tràng thường do các vi sinh vật thuộc hệ vi sinh vật âm đạo bình thường gây ra, ngoại trừ Trichomonas sp., và do thói quen vệ sinh không đầy đủ, chẳng hạn như sử dụng vòi hoa sen âm đạo thường xuyên hoặc không mặc quần lót bằng vải bông, chẳng hạn, có thể sinh sôi và gây nhiễm trùng và viêm nhiễm vùng kín.
Ngoài ra, viêm cổ tử cung cũng có thể xảy ra khi bạn quan hệ hơn 4 giờ với tampon bên trong âm đạo, do thay đổi nội tiết tố, sử dụng thuốc kháng sinh hoặc do quan hệ tình dục trong thời kỳ kinh nguyệt hoặc quan hệ tình dục không dùng bao cao su.
Điều quan trọng là phải xác định được nguyên nhân gây viêm cổ tử cung để bác sĩ có thể chỉ định phương pháp điều trị thích hợp nhất, thường được thực hiện bằng cách sử dụng thuốc kháng sinh nhằm mục đích loại bỏ vi sinh vật dư thừa gây ra viêm cổ tử cung ngoài việc hỗ trợ phục hồi mô âm đạo và của cổ tử cung. Hiểu cách điều trị viêm cổ tử cung được thực hiện.
Làm thế nào để biết đó là viêm cổ tử cung
Ngoài việc đánh giá các triệu chứng mà người phụ nữ trình bày, bác sĩ phụ khoa nên thực hiện một số xét nghiệm để kiểm tra các dấu hiệu chỉ định của viêm cổ tử cung. Do đó, bác sĩ sẽ đánh giá vùng kín, xác định các dấu hiệu của viêm, cũng như thực hiện các xét nghiệm và kiểm tra giúp kết luận chẩn đoán viêm cổ tử cung và xác định vi sinh vật gây viêm, được chỉ định nhiều nhất:
- Kiểm tra độ pH: lớn hơn 4,7;
- Thử nghiệm KOH 10%: Dương tính;
- Kiểm tra tươi: được thực hiện từ việc phân tích một mẫu dịch tiết âm đạo và trong trường hợp viêm cổ tử cung, cho thấy sự giảm sút của lactobacilli, còn được gọi là trực khuẩn Doderlein và bạch cầu hiếm hoặc không có;
- Xét nghiệm Gram: được thực hiện từ việc phân tích một mẫu dịch tiết âm đạo và nhằm mục đích xác định vi sinh vật gây viêm;
- Xét nghiệm nước tiểu loại 1: có thể cho biết sự hiện diện của các dấu hiệu cho thấy nhiễm trùng, ngoài sự hiện diện của Trichomonas sp., là một trong những nguyên nhân gây viêm cổ tử cung;
- Xét nghiệm Schiller: trong đó bác sĩ truyền một chất có i-ốt vào bên trong âm đạo và cổ tử cung, xác định những thay đổi có thể xảy ra trong các tế bào là dấu hiệu của nhiễm trùng và viêm;
- Soi cổ tử cung: là xét nghiệm thích hợp nhất để chẩn đoán viêm cổ tử cung, vì nó cho phép bác sĩ đánh giá chi tiết âm hộ, âm đạo và cổ tử cung, đồng thời có thể xác định được các dấu hiệu chỉ ra tình trạng viêm nhiễm. Hiểu cách soi cổ tử cung được thực hiện.
Ngoài các xét nghiệm này, bác sĩ cũng có thể thực hiện xét nghiệm Pap, còn được gọi là xét nghiệm phòng ngừa, tuy nhiên xét nghiệm này không thích hợp để chẩn đoán viêm cổ tử cung, vì nó không đặc hiệu và không có dấu hiệu viêm nhiễm. .
Một số xét nghiệm được chỉ định để biết liệu đó có phải là viêm cổ tử cung hay không có thể được thực hiện trong quá trình tư vấn với bác sĩ phụ khoa và người đó có kết quả trong quá trình tư vấn, tuy nhiên những xét nghiệm khác cần mẫu được thu thập trong quá trình tư vấn để gửi đến phòng thí nghiệm để họ có thể được phân tích và có thể có chẩn đoán.